This is an example of a module published to the drop_down row. This row contains 6 modules. To enable the drop down simple publish any module to any of the drop_down_x positions.
1 | Có Pháp Môn Nào | 1:13:54 | ||||
2 | Hồi Phục Sự Sống Nơi Ta | 1:05:24 | ||||
3 | Cá Vượt Vũ Môn 01 | 1:09:15 | ||||
4 | Cá Vượt Vũ Môn 02 | 1:13:30 | ||||
5 | Cá Vượt Vũ Môn 03 | 1:15:56 | ||||
6 | Lau Xanh Rời Cành | 1:09:32 | ||||
7 | Ta Còn Lại Gì | 1:13:24 | ||||
8 | Đa Văn Và Vô Văn | 1:12:57 | ||||
9 | Vượt Bộc Lưu 01 | 1:19:29 | ||||
10 | Vượt Bộc Lưu 02 | 1:52:38 | ||||
11 | Nhân Duyên Và Quả Báo 01 | 1:08:52 | ||||
12 | Nhân Duyên Và Quả Báo 02 | 1:09:53 | ||||
13 | Người Thua Trận | 1:07:17 |
Từ ngữ A-hàm (Àgama) nói theo nghĩa rộng là chỉ cho những giáo thuyết được truyền thừa, hoặc các Thánh điển do sưu tập các giáo thuyết ấy tạo thành. Do vậy, thông thường nói Kinh A-hàm tức chỉ cho 4 bộ hoặc 5 bộ Thánh điển của Phật giáo Nguyên thủy.
Phật giáo Nguyên thủy là thời đại giáo pháp còn nhất vị, giáo đoàn còn thống nhất, chưa phân chia thành bộ phái, tức trong khoảng thời gian từ khi Đức Phật bắt đầu thành lập giáo đoàn, hoằng dương giáo lý cho đến 100 năm (hoặc 200 năm) sau khi Phật nhập diệt. Kinh điển trong thời kỳ này bao hàm hình thái nguyên thủy nhất của giáo thuyết Phật-đà. Đây là cơ sở giáo lý căn bản của Phật giáo Đại thừa, Tiểu thừa sau này.
Cuối thế kỷ XIX, các học giả phương Tây bắt đầu nghiên cứu các kinh điển Pàli, lấy Phật giáo phương Nam làm chính. Trước đó, các học giả Trung Quốc và Nhật Bản chẳng những không biết có sự tồn tại của Thánh điển Pàli mà cũng chưa hiểu rằng Thánh điển này giống với Kinh A-hàm, tức Kinh Phật Hán dịch xưa nay được quen gọi là “Kinh Tiểu Thừa”. Vì thế, kể từ khi Kinh A-hàm bị phán thích là kinh điển thuộc về Tam Tạng giáo của Tiểu thừa, có giáo nghĩa thấp nhất trong “Ngũ thời Bát giáo” của Đại sư Trí Khải đời Tùy cho đến nay thì giá trị Kinh A-hàm bị các học giả và các nhà tôn giáo xưa nay coi thường.